GIỌNG NÓI TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT

Con người sáng tạo ra ngôn ngữ và nó trở thành phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Trong quá trình vận dụng, người ta luôn có ý thức chú ý đến việc tổ chức lời nói sao cho đạt hiệu quả cao trong quá trình ngôn giao. Ngay từ thuở xa xưa, khi chưa có các ngành khoa học về ngôn ngữ, ông cha ta đã đúc kết những kinh nghiệm vận dụng lời ăn tiếng nói của mình trong tục ngữ và cho đến nay, những kinh nghiệm này vẫn còn nguyên giá trị. Cho dù chỉ mới là kinh nghiệm, nhưng tính triết lí ngôn giao dân gian đó vẫn giàu sức thuyết phục và sống mãi với thời gian. Đấy là vì nó thể hiện cái logic của mình một cách hình tượng, hàm súc, đậm hơi thở của cuộc sống cùng sự trải nghiệm từ chính thực tế nói năng. Đằng sau mỗi câu tục ngữ, đằng sau những hình ảnh, những kinh nghiệm khái quát từ chính cuộc sống ấy là bản sắc văn hoá, là phong cách sống, là lối nói, giọng nói, cách nghĩ của người Việt.

 giọng nói hay

Tác dụng của lời ăn tiếng nói

 

Trước hết, nhân dân ta nhận thức rõ tầm quan trọng và giá trị của lời ăn tiếng nói. Ngôn ngữ là công cụ dùng để giao tiếp. Nhưng khi sử dụng ngôn ngữ, người ta  không chỉ thuần tuý chuyển tải thông tin khách quan mà còn nhằm tác động vào đối tượng, chinh phục đối tượng hoặc thể hiện sự đánh giá tình cảm của mình… Ngôn ngữ có sức mạnh thật diệu kì. Nó có thể làm cho con người gần gũi, gắn bó (“Lời nói nên vợ nên chồng”) hay mãi cách xa. Nó có thể làm cho chúng ta yêu thương hay căm giận. Nó có thể làm cho đối tượng tham gia giao tiếp phơi phới yêu đời hoặc dằn vặt, đau đớn (“Lời nói đau hơn roi vọt“) hay tiếc nuối, day dứt khôn nguôi (“Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời“). Nó có thể gây nên chiến tranh (“Khẩu thiệt đại can qua“) mà cũng có khả năng làm “sóng yên biển lặng“…Vì thế, khi nói về giá trị của lời ăn tiếng nói, nhân dân ta đã dùng những hình ảnh biểu trưng cho sự quý giá để so sánh như: “Lời nói, gói vàng”; “Lời nói quan tiền tấm lụa”… thậm chí rất cần thiết cho sự sống: “Một lời nói, một đọi máu“. Giá trị càng cao thì người sở hữu càng phải trân trọng, giữ gìn khi vận dụng bởi:

 

Vàng sa xuống giếng khôn tìm,

 

Người sa lời nói như chim sổ lồng”

 

Không biết kiểm soát ngôn từ, nói không đúng chỗ, lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ  không hợp lí, không phù hợp với đối tượng, không diễn đạt chính xác tâm tư tình cảm của mình thì có thể gây nên những hậu quả khôn luờng. Bởi vì dù “Lời nói gió bay” nhưng có thể “há miệng mắc quai” do “Một lời đã trót nói ra, dù rằng bốn ngựa khó mà đuổi theo”;  “Sẩy chân đã có ngọn sào, sẩy miệng biết nói làm sao bây giờ“.

 ảnh

Bài học về sự vận dụng ngôn từ

 

Ngôn ngữ có sức mạnh rất to lớn nhưng không vì thế mà bộ phận tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm nói năng chỉ coi trọng đến việc “điều câu khiển chữ“, đến hình thức của lời nói. Người ta thừa nhận cái logic “Nói ngọt lọt đến xương” nhưng cũng khẳng định một thực tế “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”; “Gươm hai lưỡi miệng trăm hình”, “Lưỡi mềm độc quá con ong“…Do đó, tục ngữ còn phản ánh yêu cầu cao về  tính chân thật của lời nói; lời nói phải đi đôi với việc làm: “Nói chín thì phải làm mười, nói mười làm chín kẻ cười người chê”, “Nói lời thì giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay”. Ở đây dường như có sự mâu thuẫn. Một mặt, tục ngữ đề cao sức mạnh của lời nói hay, “nói ngọt“; mặt khác lại tỏ ra hoài nghi với những câu đường mật nên khẳng định giá trị của lời nói ngay, nói thật, nói phải: “Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành”; “Một câu nói ngay bằng ăn chay cả tháng”; “Nói phải củ cải cũng nghe”; “Nói gần nói xa chẳng qua nói thật”… Và, tục ngữ lại chỉ ra một thực tế không thể chối cãi đối với người thụ ngôn là: “Nói thật, mất lòng”; “Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng”; “Nói ngay hay trái tai”. Thoạt nhìn tưởng như mâu thuẫn và dễ nghĩ rằng tính triết lí ngôn giao trong tục ngữ thiếu nhất quán. Nhưng thật ra, nó lại rất đúng, rất linh động, rất đời thường, rất thực chứ không xám xịt, bó hẹp trong một vài quy luật khô cứng. Sự tồn tại của chúng cho đến nay là minh chứng đầy sức thuyết phục kinh nghiệm giao tiếp của nhân dân ta. Rõ ràng việc vận dụng ngôn ngữ không hề đơn giản và bài học ngôn từ có lẽ sẽ không hề xưa cũ đối với tất cả mọi người và ở mọi thời.

 

Lời nói và phong cách

 

Ngôn ngữ là công cụ chung dùng để giao tiếp trong một cộng đồng nhưng mỗi người, khi sử dụng lại có những thể hiện riêng, có thói quen ngôn ngữ riêng. Ngay cả mỗi cá nhân, cùng một nội dung thông báo nhưng nếu hoàn cảnh, đối tượng, mục đích giao tiếp… thay đổi thì việc vận dụng ngôn ngữ cũng có sự thể hiện khác biệt. Tất cả những điều này tạo nên sự sinh động, đa dạng, phong phú và biến đổi không ngừng của ngôn ngữ giao tế. Sự hiện thực hoá ý tưởng bằng những phát ngôn cụ thể trong quá trình ngôn giao đều mang đậm dấu ấn phong cách của mỗi người. Có thể nói qua lời ăn tiếng nói, người ta phần nào thể hiện tâm hồn, tính cách và tình cảm của mình… Nếu Buffon (1707- 1788)- một nhà văn, nhà lí luận Pháp- có khẳng định:”Phong cách là chính con người” (Le style, c’est l’homme) thì từ xa xưa, điều này đã được tục ngữ Việt Nam đề cập. Khác với cách nói mang tính hàn lâm, tục ngữ thể hiện cái logic của mình bằng lối nói so sánh hình tượng; giàu sắc thái biểu cảm mà không kém phần triết lí: “Vàng thì thử lửa thử than, chim khôn thử tiếng người ngoan thử lời”; “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”; “Đất tốt trồng cây rườm rà, những người thanh lịch nói ra dịu dàng”; “Đất rắn trồng cây ngẳng nghiu, những người thô tục nói điều phàm phu”.

 giọng nói trầm

Ai cũng có lúc “nhả ngọc phun châu” và cũng có khi không thể kiềm lòng mà tuôn ra những lời khó nghe, khiếm nhã. Nhưng cái logic trên quả thật đúng và đáng suy ngẫm. Trong quá trình ngôn giao, ngoài sự chi phối do các nhân tố khách quan còn có sự chi phối từ chính bản thân người nói như: thói quen, nghề nghiệp, tính cách, tình cảm, giới tính, địa bàn cư trú,… Tất cả những điều này sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ khi giao tiếp. Lời nói là kết quả của sự tổng hoà từ rất nhiều các nhân tố khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Và, cũng chính từ lời nói, qua thực tế giao tiếp hàng ngày, ta thấy được chủ thể phát ngôn là người như thế nào: hiền hoặc dữ; tốt hay xấu; trầm mặc hay sôi nổi; nhân ái hay thâm độc; khôn ngoan hoặc ngu dốt; dịu dàng hay chanh chua, cục súc…

 

Lời nói và vị thế xã hội

 

Tục ngữ còn đề cập đến vị thế của người giao tiếp. Mỗi người, khi tham gia giao tiếp, bao giờ cũng xuất hiện với một tư cách, một cương vị nhất định mà mối quan hệ gia đình và xã hội đã quy định. Có mối quan hệ ngang vai, có mối quan hệ không bằng vai. Trong quan hệ giao tiếp không bằng vai, rõ ràng lời nói của vai trên có “sức nặng” hơn vai dưới. Trên nói, dưới nghe. Gia đình và xã hội khó mà ổn định và phát triển nếu trật tự này bị xoá nhoà hay không được tôn trọng. Nhưng điều đó cũng không cho phép vai trên muốn nói gì thì nói theo kiểu “Chân lí nằm trong tay kẻ mạnh“. Khi đề cập đến vị thế của người giao tiếp, sự thể hiện của tục ngữ có phần nào đó vừa mỉa mai, chỉ trích vừa bi quan, chua chát: “Tay mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá người nghe ầm ầm”; “Trong lưng chẳng có một đồng, lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe”;  “Miệng nhà quan có gang có thép”… Điều này cũng dễ hiểu vì cái logic đó đa phần là cái logic của những người nông dân thấp cổ bé miệng ngày xưa. Thân phận họ như “con ong, cái kiến” và lời nói bị xem nhẹ như vỏ trấu,  rơm khô.

 

Một số yêu cầu trong ngôn ngữ giao tiếp

 

Từ việc chỉ ra giá trị của ngôn ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ với lời nói cá nhân, tục ngữ  đã khái quát nên một số yêu cầu thiết thực.

 giọng nói quá hay

Đầu tiên là sự ngắn gọn khi giao tiếp. Tục ngữ có câu: “Ăn bớt bát, nói bớt lời”. Một trong những nguyên nhân về việc sử dụng lời nói không đạt hiệu quả cao là do nói nhiều mà lượng thông tin không được bao nhiêu. Và hơn thế nữa, hậu quả của sự nói nhiều là bộc lộ những sai sót có thể có: “Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn hoá rồ”; “Năng ăn hay đói, năng nói hay lầm”; “Hương năng thắp năng khói, người năng nói năng lỗi”… Cái gì quá mức độ cũng không hay, do đó cần phải biết điều tiết: “Rượu nhạt uống lắm cũng say, người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm“. Cái logic ở đây là đòi hỏi cao về lượng thông tin chứ không phải là độ dài lời nói. Chính xác hơn, tục ngữ  đòi hỏi có một mối quan hệ phù hợp giữa lượng và chất. Một văn bản dài nhưng nếu thông tin phong phú, không thừa từ, thừa ý vẫn là một văn bản đạt được tính ngắn gọn. Một phát ngôn vẫn bị coi là dông dài nếu diễn đạt theo kiểu “dây cà ra dây muống“. Người xưa quan niệm, nói nhiều chưa chắc là người có hiểu biết mà đôi khi là do “thùng rỗng kêu to”. Tục ngữ Nga có câu: “Nói ít đi thì sẽ thông minh hơn“. Tục ngữ Việt không thiếu những câu thể hiện điều này:”Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo”; “Người khôn nói ít làm nhiều, không như người dại lắm điều rườm tai”; “Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều, người khôn mới nói nửa điều đã khôn”…

 

Để  đạt được yêu cầu trên, khi nói năng cần phải suy nghĩ. Rõ ràng, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thiếu sót, non kém trong vận dụng ngôn ngữ là do không cân nhắc, lựa chọn ngôn từ để vận dụng phù hợp trong từng cảnh huống giao tiếp cụ thể. Điều này đã được nhân dân ta khái quát trong câu: “Ăn có nhai, nói có nghĩ”.  Một sự so sánh rất bình dân, mộc mạc nhưng cũng rất thâm thuý. Đấy có thể coi như là quy luật tất yếu. Con người không thể sống nếu không ăn và cũng khó thể tồn tại và phát triển nếu thiếu sự giao tiếp. Trong quá trình thực hiện các hành động này, nếu nhai không tốt, nghĩ chưa sâu thì đều có thể dẫn đến kết quả xấu. Để nhấn mạnh điều này, tục ngữ Việt đã nêu lên những hậu quả khôn lường khi nói năng thiếu nghĩ suy bằng những so sánh giàu hình tượng: “Sẩy chân còn hơn sẩy miệng”; “Vạ ở miệng mà ra, bệnh qua miệng mà vào”; “Vạ tay không hay bằng vạ mồm“…Triết lí này dẫn đến một yêu cầu thứ ba khi vận dụng ngôn ngữ. Đó là cần chú ý  lựa lời khi nói năng.

 thở bụng

Các phương tiện ngôn ngữ ở tất cả các cấp độ (ngữ âm, từ vựng, cú pháp) luôn tồn tại những hình thức biểu đạt cùng nghĩa. Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa như thế phù hợp với từng điều kiện giao tiếp cụ thể. Do đó, việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ là một thao tác tự nhiên, tất yếu khách quan. Có lựa chọn tốt thì mới có thể tạo ra một lời nói tốt. Phong cách học hiện đại đã chỉ ra cụ thể những thao tác lựa chọn, quy luật lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ nhằm tạo ra các phát ngôn đạt hiệu quả giao tiếp cao. Tuy nhiên, vốn ngôn ngữ dồi dào (tiền đề khách quan cho sự lựa chọn) cùng với việc nắm vững quy luật, thao tác lựa chọn vẫn chưa đủ. Giữa lí thuyết trong sách vở với thực tế sống động trong việc vận dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày vẫn có một khoảng cách và bị chi phối rất lớn bởi cá nhân người nói. Khi tranh luận, phê bình, chỉ trích, do không nén nổi bức xúc, đôi khi chúng ta dùng những từ khiếm nhã, nặng nề cho hả giận, đã tức. Điều này có lẽ ai cũng từng trải nghiệm và chắc chắn sẽ còn gặp phải. Giá trị đích thực của hoạt động ngôn giao không chỉ là thông tin mà còn là để con người gần nhau, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau. Lấy tình cảm làm nguyên tắc lựa lời là văn hoá ứng xử, giao tiếp của người Việt Nam: “Chim khôn chưa bắt đã bay, người khôn chưa nói dang tay đỡ lời”; “Chim khôn ai nỡ bắn, người khôn ai nỡ nói nặng”; “Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi, người khôn ai nỡ nặng lời đến ai”; “Người khôn ai nỡ roi đòn, một lời nói nhẹ hãy còn đắng cay”; “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau“. Lời khuyên này có lẽ không bao giờ cũ, không bao giờ thừa với tất cả mọi người.

Nói chuyện với bố mẹ nên ra sao? Khi dạy con cần tông giọng gì? Đối với chồng về muộn thì vợ nên nói gì?  Tất cả sẽ được giới thiệu trong Khóa học lý thuyết Làm chủ giọng nói được hướng dẫn bởi HLV Trần Thị Minh Hải – chuyên gia trong việc đào tạo Kỹ năng giao tiếp ứng xử và chăm sóc khách hàng, người thay đổi giọng nói của mình và có 5 năm kinh nghiệm trong huấn luyện  giọng nói và làm chủ giọng nói đến từ I Love My Voice.

(Sưu tầm)

Bookmark the permalink.